THƠ MỪNG TUỔI 60

Ra đi là để trở về (Kinh Thánh )


Nước kiu bước qua vòng hoa giáp
Sáu mươi năm về gặp ngưỡng tuổi thơ
Chợt nhớ ngày nào vâng lời mẹ dặn
Đừng mải chơi quên cơm đợi canh chờ

Mẹ giờ bỏ theo cha về núi
Nơi cũ ngoái trông bè bạn cũng già
Con Biết thương cha, cháu như người lớn
Học chữ làm người ,học ngủ ,học ăn…

Thế mới biết đời người thật ngắn
Tàn cuộc chơi bao hờn giận oán thù
Cơm canh lạnh, yêu thương đều vội vã
Để bây giờ tan nát mỗi lời ru…

Ơi bè bạn …một vạn lần xin lỗi
Bao hứa suông đừng nằm ở dạ người
Kẻo gần đất xa trời không bén gót
Nơi cuộc đời vốn hiếm nước mắt rơi

Thôi hãy coi đây là lời gan ruột
Xin bạn đừng cố chấp hỡi người thơ
Bởi tôi muốn một con đường ngắn nhất
Để tin yêu biết học cách đợi chờ.

 Đầu xuân Giáp Ngọ- 2014
Nguyn Tt Hanh
Quỳnh


Hôn nắng gió
cho tinh khôi xòe mở
Thả dịu ngọt xuống đáy thời gian

Nương tơ lòng mà vương phấn lệ
chẳng cần đêm

Nếu đêm không đến
Bởi hồng hoang sẽ đến thay đêm.

Đời vô tình
mà hoa vẫn nở
Thánh thót …thời gian 
nén lại
để năm tháng bung ra từ nách lá
Những hồi chuông thỉnh cuối ngày dài.

                                                26-9-2013


Hoa quỳnh - ảnh Nguyễn Tất Hanh

Bộ sưu tập tượng gốm dân gian Việt Nam của nhà sưu tập Phan Quốc Dũng tại TT Triển lãm & Mỹ thuật Hải Phòng


Vào ngày 11/6/2013, tại Trung tâm triển lãm và Mỹ thuật thành phố (số 1 Nguyễn Đức Cảnh, Hải Phòng). Nhà sưu tập Phan Quốc Dũng giới thiệu với công chúng bộ sưu tầm đồ gốm và tượng gốm dân gian Việt Nam. Đây là bộ sưu tầm quý giá và hiếm thấy, với hàng trăm hiện vật còn gần như nguyên vẹn với chủ yếu là các pho tượng nhỏ bằng đất nung có chiều cao trung bình khoảng 25cm, miêu tả cuộc sống của ông cha ta ngày xưa với các sinh hoạt xã hội thời đó.

Ông Phan Quốc Dũng cho xem đáy một bức tượng


 Những mảnh vỡ của lịch sử

Ngẫu hứng

Trần chi

Tặng Tất Hanh

Đêm nằm nghe bạn bình thơ
Căn phòng mười hai mét vuông
dương ba mươi chín độ
Câu thơ làm dịu ngày hạ cháy
Bên ngoài
êm ả cuộc sống trôi

A, có con cá nào quẫy đuôi
Ở phía Tây hồ
Câu thơ khát
Một đời vẫn khát
Câu thơ chưa thành bài
vây phủ bạn tôi.

-------------
Hà nội 2009

Thi ca và những “kẻ mộng tưởng”…

Mai Văn Phấn là nhà thơ có những cách tân táo bạo trong những thập kỷ gần đây, anh đã thành công và mang về cho thi ca một vẻ đẹp rực rỡ, riêng biệt .
Nhân dịp tập thơ của anh được dịch giả Trần Nghi Hoàng chuyển ngữ sang tiếng Anh và phát hành rộng rãi ở trong và ngoài nước . Blog Nguyễn Tất Hanh xin chuyển tới bạn đọc bài viết của nhà phê bình văn học Khánh Phương để tri ân cùng anh .


Nhà thơ Mai Văn Phấn



KHÁNH PHƯƠNG
Thi ca và những “kẻ mộng tưởng”…

Thơ Mai Văn Phấn, ngay từ những bài của thời kỳ đầu tiên, đã bộc lộ khuynh hướng mộng tưởng và lãng mạn. (Người ta sẽ vặn hỏi, đã làm thơ thì có ai không mơ màng và không lãng mạn? Quý vị đừng nhầm. Giữa khái niệm “mơ màng, lãng mạn” theo nghĩa để chỉ những tâm trạng mộng ảo viển vông với “mộng tưởng lãng mạn” như hai giá trị thi ca, là một hố thẳm.) Trong truyền thống thực dụng lấn át của thi ca Việt, những kẻ mộng tưởng và lãng mạn đích thực không nhiều.
Đang rất phiêu bồng kỳ dị: “Đêm qua tát nước đầu đình/ Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen”, chàng thi sĩ trong ca dao đột ngột trở nên thực tế không ngờ: “Khâu rồi anh sẽ trả công/ Đến khi lấy chồng anh sẽ giúp cho” và từ đó trở đi với những “xôi vò, lợn béo, tiền cheo”… để cho ta thấy bài thơ tuyệt mỹ vòng vo này té ra làm thay sứ mệnh của một lời cầu hôn thông dụng.
Gần chẵn một ngàn năm quanh quẩn trong truyền thống nệ thực của văn chương, “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí”, thi ca Việt chưa tiến được những bước dài không vướng bận tới những không gian thăm thẳm của ngôn ngữ thi ca.
Ngay cả khi giã từ tấm áo vay mượn của cảm thức nhà nho, dù sở đắc hay ưu thời mẫn thế, để trở về với thế giới thực của cảm xúc, khi cái đau của con người bản thể không còn khả dĩ giấu giếm, thì đó cũng mới chỉ là những cơn bùng phát; Ví dụ, về cái âm u của định mệnh trong Truyện Kiều, cái “dặc dặc buồn” không thuốc chữa của một thời đại trong Chinh phụ ngâm hay tâm trạng nổi loạn bồng bột trong thơ Hồ Xuân Hương, Sơ kính tân trang (Phạm Thái)…
Buồn vui đau đớn… mới chỉ là những phản xạ đầu tiên của ngũ quan và tâm trí con người.
Có chăng còn lại là những bài thơ Thiền, dù mục đích là để khuyếch trương Thiền pháp nhưng vượt lên hẳn bất cứ một mục đích thực dụng nào.
Thi ca tiền chiến là cơn mộng tưởng đầu tiên của người Việt, để lại những tên tuổi đủ làm ngây ngất kẻ đi sau: Hàn Mặc Tử, Vũ Hoàng Chương, Bích Khê, Nguyễn Nhược Pháp, Thâm Tâm, Huy Cận, Nguyễn Bính, Vũ Đình Liên…
Trải qua những bước ngoặt bàng hoàng của lịch sử và tâm thức, trở thành thi ca miền Nam và thi ca miền Bắc, với sự phân hoá tột cùng, để lại những hố thẳm, những thái cực, những diễn tiến vô cùng phức tạp, thi ca Việt có quyền khẳng định thành tựu của mình, mà thành tựu ấy được gánh vác trên đôi vai của những kẻ dám mộng tưởng và suy tưởng.
Cùng với suy tưởng, thậm chí còn mở đường cho suy tưởng nghệ thuật, mộng tưởng là cốt cách đầu tiên của thi ca, để tạo hoá những không gian khác, ranh giới khác, tồn tại và sự sống khác.
Mộng tưởng của Mai Văn Phấn (MVP) dịu dàng, hướng về những gì tinh tuý, vốn bị khuất lấp sau cái vẻ ngoài dù bằng an hay bất an, hài hoà hay lộn xộn, đơn sơ tiểu tiết hay đa tạp… cũng đều do võ đoán của lý trí mà nên:
Thôi đừng dỗ cỏ lên trời/ Khi tan mộng mị biết ngồi với ai/ Dấu chân đừng hoá chông gai/ Nép vào bóng xế dũa mài hoàng hôn/ Ta về đổ bóng xuống vườn/ Cho xanh tươi lại từng cơn úa vàng/ Ghé môi vào miệng thời gian/ Cho hơi thở mọc muôn vàn cỏ non…
Cái tinh tế hiện ra bằng những tâm trạng chông chênh:
Em thở êm như biển lặng tờ/ Hay đâu có bão ở trong mơ/ Tay em anh khẽ nâng trên ngực/ Như kéo con thuyền lên cát khô…
Thôi em! Đừng vặn! đừng khêu!/ Đáy thu thắp sáng trên nhiều ngọn cây/ Anh vừa đọng xuống thu gầy/ Đã đông thành đá phủ đầy rêu xanh…
Mộng tưởng của MVP có khi chất phác, rụt dè:
Không gian như phủ Chúa/ Hoa cười vang cung mê…
MVP là nhà thơ không tin tưởng vào lý trí. Ông không tin cái thực tại do ngũ quan và lý trí thông thường tạo nên, mà có nhu cầu hồ nghi, xao xuyến, đảo lộn tất thảy thực tại ấy.
Từ những mộng tưởng đầu tiên, ông khởi hành một thế giới khác.
Trường ca Người Cùng Thời cho thấy biến động lớn trong thơ MVP: tâm hồn người nam giới xoay chuyển giữa những bổn phận về đạo đức, những ưu tư thời cuộc tới những bí ẩn thăm thẳm vừa chập choạng mơ hồ vừa quyến rũ không thể cưỡng nổi của một thế giới huyền hoặc vừa hé lộ.
Khuynh hướng bí ẩn huyền hoặc lấn chiếm, “thay máu” dần phạm vi tường minh của đạo đức và thời cuộc một cách không dễ nhận biết.
Bàn tay ta huơ lên bình minh/ Từng mảng đêm lạnh giá bốc khói
Hai câu mở đầu trường ca mạnh hơn hẳn 2 câu sau, vì nó hình dung sự chuyển biến cụ thể, mang tính chất ẩn dụ quen thuộc, “đêm sang ngày”, như một quá trình bí ẩn. Con người cũng trở nên bí ẩn, mang cả hai phẩm chất, khi đứng giữa cái bình thường, thực tại với cái lung linh kỳ niệm. Cái xác định, cụ thể với cái huyền ảo cùng xuất hiện trong cảm thụ một cách nhẹ bẫng, không hề có ranh giới.
Hai câu sau:
Dĩ vãng quanh ta tỏ mờ sương khói/ Hiện dần lên bao năm tháng phủ sương… là kiểu liên tưởng rất thường, nếu không nói là nhợt nhạt, dở.
Nhiều câu thơ mang dấu vết biến chuyển từ những hình tượng ẩn dụ quen thuộc trở thành nhóm hình ảnh kỳ lạ, dựa trên sự tương hợp cảm giác của những sự vật rất xa nhau:
Khi bóng cộng hưởng với hình thì dấu chân cộng hưởng với bàn chân. Mỗi giọt nắng gieo xuống đất đai dồn tụ trong ta bao sức lực. Ta ngỡ hân hoan đang hạ thuỷ con tàu.
Ngỡ dây níu gỡ ra từ cột bích, con tàu đi hay lưỡi cuốc lưỡi cày lao vào trong đất. Biển tựa mặt chiếc trống đồng vừa mới đào lên.
(Phần III: Cộng hưởng I)
Câu thơ còn chưa hẳn thoát khỏi lối liên tưởng chất phác, bỡ ngỡ, nhưng bộc lộ năng lượng tích tụ và dịch chuyển những vùng cảm giác mới lạ, mãnh liệt.
Sự chuyển hoá của ẩn dụ mang tính hiện thực thành cảm giác phi thực:
Chân tay ta vừa rút khỏi những huyễn hoặc giấc mơ, còn tê cứng cả một đời cuốc cày liềm hái, một đời bàn tay phải lệ thuộc vào tay trái.Cả hai bàn tay lệ thuộc vào nỗi ú ớ toát mồ hôi của cái chết lâm sàng, chỉ biết cứng đơ mặc cho cơn bóng đè trùm lợp…
Sự rậm rạp của các nhóm hình ảnh biến hoá liên tục, nhiều khi mang lại cảm giác chuyển dịch mới lạ, còn lại thường gây sự phức rối, thừa thãi. Thừa thãi có thể là một ưu điểm của thơ, nếu nó là hệ quả tất yếu của tương tác, âm vang nhiều vùng ngữ nghĩa, nhưng không được kể là ưu điểm khi vụng về, rườm rà.
Sau Người Cùng Thời, năm 2003 nhà thơ MVP có Vách Nước. Và Đột Nhiên Gió Thổi, Hôm Sau, năm 2009. Bầu Trời Không Mái Che, năm 2010. Đây là mười năm biến chuyển và thành tựu quan trọng nhất của thơ MVP.
Từ mộng tưởng tới tư duy siêu thực là một chặng đường không mang tính tự phát, nó buộc phải trải qua học tập và sự thích ứng. Nhưng nó cũng là tất yếu: tư duy siêu thực đưa mộng tưởng hành trình vào bề sâu của tri giác, tâm thức con người cũng như những quyến rũ hư ảo của nghệ thuật. Mộng tưởng hướng tới cái chông chênh, thiếu hụt của cảm thức thông thường, tiến xa hơn trong mối âu lo về cái chưa biết, sự phù du của cái đã biết, kể cả cái đẹp, xa rời lý tính cơ giới. Tư duy siêu thực chấp nhận và thăng hoa cái phi lý, hướng tới những mối liên hệ và tri thức bí ẩn, tin cậy và theo đuổi hiện thân khả dĩ của tiềm thức.
Vách Nước là những “bài tập” siêu thực của thơ MVP, trong đó có nhiều tứ thơ hay, mở ra những vùng cảm giác tinh khôi, dịch chuyển và giao thoa kỳ lạ, phức hợp của giác quan.
Từ những tương hợp giữa hình ảnh và âm thanh, giữa hình ảnh với hình ảnh, chuyển động và bất động:
tiếng sét đi không còn vọng/ thông với vực sâu lối hẹp/ tiếng kẹt cửa réo vang/ mở con đường…
(Tiếng- kẹt- cửa)
Con đường là chân tay anh/ Một lần lá trôi về lá/ ánh trăng không động/ Con đường dính chặt/ nhấc lên cùng vó ngựa…
(Anh anh em em)
Cho tới sự nhuần nhuyễn cảm giác, phát lộ “huệ giác”:
Đám mây ấm nóng/ hay em bay/ che lên căn phòng/ và hàng cây/ ôm con đường về lại…
B a y q u a. B a y q u a/ Tóc cuốn cành khô/ Thân em nhẹ làm bật tung cội rễ…
(Hát từ đất)
Em thổi mùa ấm nóng/ cây thiếu nước rũ xuống không xa dòng sông căng mình lộng lẫy/ con cá nghiền nát lưỡi câu đảo lộn trật tự thời gian/ anh thu mình bay vào vô tận/ ngọn tháp dâng cao giác quan nhiều chiều…
(Nơi trời rộng)
Sự tích luỹ tương đồng dần làm đầy tràn năng lượng cảm giác, lôi kéo những hình ảnh đồng dạng từ vô thức, đạt tới sự bùng nổ năng lượng mới. Hoặc cùng một năng lượng tự phân hoá thành những vùng đối kháng, đẩy xa hơn những biên độ cảm giác, đồng nhất chủ thể với năng lượng ngoại giới.
Có khi “biến tấu” để tạo nên những hình ảnh ma quái, nghịch đảo hay bỏ quãng cái hữu thực, tạo thành nhóm hình ảnh vừa tương đồng vừa cách xa, mang nội hàm tương phản:
Tử khí kéo ngọn bấc tới đỉnh trời/ Con quạ rực sáng…
… Áo khoác kêu thất thanh khi đi qua bàn tủ. Máy điện thoại im lìm ngủ. Chiếc kẹp ghim mở miệng cố giấu đi móng vuốt. Cán chổi mócvào tay người lao công, kéo chị ta về bên hố rác. Vành mũ trên đầu kêu thảng thốt, rồi cúi xuống rỉa hết mặt nhân viên bảo vệ…
Biến tấu con quạ là một trong những bài thơ với sáng tạo nổi bật và duy trì được nội lực đều khắp của nhà thơ MVP.
Luôn luôn, thơ MVP mạnh về hình ảnh và cảm giác hơn là thiên về ý tưởng. Nhưng ở cấp độ chắt lọc tinh tế cũng như chặt chẽ, chính hình ảnh và cảm giác đã chuyển hoá thành ý tưởng và biểu tượng, mở ra vùng sống tồn riêng biệt cho thơ.
Phải đến Và Đột Nhiên Gió Thổi, Hôm Sau, tức là rải rác qua nhiều năm, sau những thể nghiệm tương đối phức hợp của Vách Nước, thơ MVP mới chạm tới cốt cách đích thực của mình. Người đọc có thể nhận biết thi pháp trọn vẹn, không bị phân tán bởi sự thừa thãi, những đa tạp mông lung, mà lại không phải sự nhất quán tầm thường, qua rất nhiều bài thơ có thể kể tên: Nghe em qua điện thoại, Những tiếng nổ nhỏ, Mưa trong đất, Gió thổi, Nhắm mắt, Thanh tẩy đầu năm, Khai bút cùng cỏ, Những bông hoa mùa thu…
Ở thời điểm này, ông biết chấp nhận, coi cái “phi lý” là bản chất sâu xa của tâm hồn và nghệ thuật:
Khoảng cách tới đầu dây bên kia là ruộng đồng, làng mạc, quang gánh. Là xe cộ, tháp dựng, rễ sâu. Giọng em không vượt qua mà làm cho chúng bé lại, mở thông những cánh cửa sang nhau. Anh nghe em nhờ rễ sâu mở những vỉa tầng linh thiêng trong đất ấm, con sông chảy vào quang gánh, làng mạc phồn sinh tháp dựng, cánh đồng tươi tốt trên xe cộ…
Sự giản dị, sáng tỏ và dứt khoát về mặt tạo hình của hình ảnh thơ tuôn chảy thành bố cục mới của ý tưởng, không cần tới các liên tưởng trung gian rậm rạp.
Tương tự trong Nhắm mắt:
Nhắm mắt nhìn mọi người và đồ vật thật công nhiên thật rõ. Sách bút, giường tủ, dao thớt, chiếc xe đạp cũ đều kích cỡ như nhau… Nhắm mắt thấy em không rộn ràng như khi mở mắt. Nhưng sự im lặng của em vang lên những âm thanh kỳ lạ, mách bảo tình yêu đã thấm vào cây cối, đường sá, phố nhà, vào vườn tược, ruộng nương, sông suối… Từ nay ta không cần nghi ngờ điều gì khi nhắm mắt.
“Nhắm mắt”, mở huệ nhãn không phải ý tưởng của riêng MVP, nhưng được hội tụ sinh động từ thế giới hình ảnh chắt lọc của nhà thơ.
“Quay về tắm bằng ngọn đèn”, “Xối ánh sáng vào những góc khuất”, “Vừa xối mạnh vừa gọi tên em…”, đây không phải những ý tưởng, nhưng là hình ảnh mang tính kỳ diệu, có uyền năng tác thành ý tưởng.
Về bản chất, tư duy siêu thực gần gũi với tư duy huyền ảo. Nếu lối viết siêu thực khởi đầu từ cuối thế kỷ 19, thịnh hành trong nửa đầu thế kỷ 20 ở Tây phương vốn được xem là chẳng có gì liên quan đến “chủ nghĩa hiện thực huyền ảo” Mỹ Latinh, thì khi đặt vấn đề trên tầm mức sâu xa hơn, điều này không còn đúng nữa. Tư duy phi lý (theo nghĩa chống lại lý tính cơ học thông thường), hỗn mang, sự dịch chuyển năng lượng cảm giác của giấc mơ siêu thực, với tư duy huyền ảo, cũng phủ nhận logic thông thường, chắp cánh cho tưởng tượng, bao gồm cả suy tưởng, thực ra cùng xuất phát từ những bí ẩn của vô thức và tiềm thức.
Tưởng tượng vượt thoát khỏi hình dung tương đồng, tương phản, tương hợp của cảm giác, tạo ra khoảng cách vượt bậc với thực tại.
Mượn thế giới siêu thực như tiến trình trung gian, thơ MVP bước sang lĩnh vực huyền ảo một cách tự nhiên, giản dị, tất yếu. Dường như đây mới là hồn cốt đích thực mà ông kiếm tìm, chờ đợi bấy lâu.
Con sâu đo em đu lên người anh/ thì thầm gặm hết những non xanh
Con ong vẫn nhởn nhơ bay/ thác đổ đều đều mưa rơi rất chậm/ nhưng tất cả ngọn cây đều bạt về một phía
Đó là thế giới của tưởng tượng huyền ảo mà bạn đọc dễ dàng nhận thấy khoảng cách đầy xung lực của nó với thực tại.
Những chất liệu thực tại chỉ đóng vai trò hết sức mờ nhạt và cũng không nhằm để tạo ra một “không gian thơ” giống như không gian hiện hữu, với sự kiện, cảm xúc cụ thể mà cách đọc thông thường mong đợi. Choán lấy hầu hết toàn bộ không gian nghệ thuật của bài thơ (hay một phạm vi sống mà bài thơ ấy lập ra) là trạng thái tinh thần chắt lọc, phi thường, tinh tuý từ người viết lan truyền tới người đọc, sao cho nguyên vẹn và trọn vẹn nhất, yêu cầu sự vươn tới của cả hai phía.
Tuy nhiên không phải lúc nào thơ MVP cũng duy trì được đều đặn độ căng đáng mong muốn ấy.
Có lần nhà thơ MVP tâm sự, với tư cách một đồng nghiệp: “Tôi không biết (cách gọi những sở cầu về thi pháp) thế nào cả. Chỉ biết viết thơ là phải tạo ra một không gian thơ riêng biệt và thật rộng lớn”.
Tôi tạm diễn giải ý tưởng của ông theo cách hiểu của tôi:
Không gian thơ, thực ra là môi trường mà nhà thơ tạo ra bằng chữ của mình, để bạn đọc cùng chia sẻ hình dung, cảm xúc, tâm trí, tâm hồn với người viết. “Riêng biệt” và “rộng lớn” không thể hiểu theo ý nghĩa chỉ những giới hạn vật chất trong sự giống nhau với cuộc đời thực. Hai chữ đó hàm nghĩa chỉ phẩm chất mà trạng thái tinh thần của nhà thơ đem lại cũng như mong cầu ở bạn đọc, nó phải chắt lọc, sâu sắc đến mức thành gần như độc nhất, phải thanh lọc qua muôn vàn kinh nghiệm, trải nghiệm và tri thức rộng lớn, để trở thành cái lớn lao. Sao cho chỉ một câu thơ đơn giản, thoạt tiên tưởng như khô khan, thông tin cộc lốc, lại nén chứa sức nặng của muôn vàn tình huống, hình tượng, ý nghĩa, cảm xúc…
Cái lớn lao trong thơ còn có thể xem tương đương với “tinh thần lãng mạn” của sáng tạo thi ca, nghệ thuật. Nó phản ánh nhu cầu vượt thoát khỏi từng sự vật, kinh nghiệm, hiểu biết nhỏ lẻ, đơn nhất, vụn vặt, để đạt tới dạng tri thức đa phương và tích hợp (quý bạn đọc phân biệt với sự “khái quát, tổng hợp, đồng thuận, đại - tự - sự” thông thường). Nó đích thực mãnh liệt, phi thường, chứa đầy sức lan toả. Một cách hình dung nữa, nó có khía cạnh gần gũi với khái niệm mỹ học “cái cao cả” mà nghệ thuật hậu hiện đại mong muốn chạm tới.
Bạn đọc có thể hoàn toàn đắm mình, hưởng thụ tồn tại nghệ thuật tinh khiết, bí ẩn, trong lành mà nhà thơ cống hiến từ loạt bài thơ Cửa Mẫu, cảm hứng linh thiêng về Thánh Mẹ:
II.
Đặt con lên đất/ Lòng sông đau xé thân đêm
Thiên nhiên láng ướt/ Thân cây rã rời từng đốt/ Nước xiết/ Chảy nhanh hơn
Con bật khóc cuốn đi lưới nhện/ Tiếng con vạc khàn khàn/ Tàn tro loé sáng/ Mặt trăng run
Nhặt viên sỏi vẽ lên mặt đất/ Một cánh đồng/ Chú bê non ngơ ngác
Tô đậm nét chú bê cúi xuống gặm cỏ
Hướng khác vẽ thêm con mắt/ Mắt muông thú hay mắt người/ Viết dòng chữ vào ô trống còn lại…
IV.
Con đuổi theo con mồi nhỏ/ Tung mình lên mặt sóng rồi mất hướng
Nước rút/ Trong giấc mơ gần sáng
Xương cốt con đau/ Đuôi và vây lưng tê cứng/ Có bàn tay luồn những sợi dây/ Kéo con lê lết
Họ dừng lại trú mưa/ Phóng thích con/ Gần chân sóng…
Ý nghĩa huyền hoặc, thâm trầm từ tín ngưỡng Thánh Mẹ sẵn có khơi dậy hiện thân thần bí thuần khiết nơi con người.
Cũng có khi đan xen với những biến cố thực hữu, tạo thành những chứng nghiệm vừa hiện hữu vừa thần bí, nhưng vẫn đằm sâu trong huyền ảo:
V.
Cha vừa gượng dậy sau trận ốm liệt, men dần ra cửa, chạm vào khối vuông ánh sáng
Người cố đưa ngón tay và bảo con cánh cam trên tán lá kia cha nhìn thấy lần đầu
Con kể những chuyện vô tình lúc cha hôn mê chuyện đám mây lớn thường bay chậm qua nhà mình. Chiếc giếng khơi dâng hơi nước lên cửa sổ. Chuyện tiếng con chim khách làm mọi người cùng nhìn bát thuốc.
Cơ thể cha tựa sông cạn, củi khô, hạt lép
Chùm quả nặng đung đưa gió mạnh
Cha bỗng thều thào hãy dìu cha đi nghỉ. 
Tiếng lá khô trượt trên mái nhà làm cha và con cùng rơi nước mắt…
Mỗi động tác nhỏ nhất có nguồn gốc thực tại đều trở thành sức kích hoạt mãnh liệt làm vang động cái thế giới thần kỳ huyền hoặc của tâm trí nhà thơ, trong Hình Đám Cỏ:
… Tiếng chim qua đỉnh đầu/ Vào cơ thể anh lúc đang tịnh độ
Xua đi cho lòng yên lặng/ Sao về được tâm không
Tiếng chim âm u/ Lập loè sáng từng phần cơ thể
Ngỡ bay cùng đàn chim/ Ngực căng tức tiếng hót
Con chim nào mới bị thương/ Cả bìa rừng đập cánh
Em ở đâu
Tiếng cắt gió vội vàng/ Men khẩu hình em theo tiếng gọi…
… Trên cao em con cá trúng xiên, con chim trúng đạn/ Vũ điệu nhịp nhàng nở đoá hoa
Nước ấm nóng mở đầu nghi lễ thanh tẩy/ Lăn trơn anh chuỗi hạt xổ tung
Vòm ngực thả trái cây sắp rụng/ Lũ cuốn, đá lở, sạt bồi
Con thú giật tung dây trói/ Nghiền không gian thành sữa thơm dưỡng chất/ Bầu vú cương lên căng mọng/ Nuôi nấng trẻ thơ khắp thế gian…
Những hình ảnh tưởng tượng đẹp, lung linh, huyền niệm, phát kiến, xuất hiện với mật độ khá dày đặc.
Bầu Trời Không Mái Che và những bài thơ lẻ tiếp sau bộc lộ một năng lượng ngôn ngữ trưởng thành, nén chặt và lan toả bằng biểu tượng, đầy sức vươn tới những tầng sâu của tưởng tượng và tri giác, mặc dầu chưa phải đã hoàn toàn tránh khỏi một đôi chỗ còn lạc điệu hay vụng về.
Giống như ý thức phân tách rõ rệt hai dòng cảm hứng, một đằng đi sâu vào những bí ẩn của thế giới tâm thức, một đằng theo đuổi những ý tưởng thời cuộc, hiện tồn của đời sống và thực hữu, nhà thơ MVP có riêng dòng thơ theo một phong cách khác.
Phong cách hài hước và thẩm mỹ dị biệt, phi “chính thống” (hiểu theo nghĩa “ngoại lai”, bỡn cợt, với tinh thần Dionysos, ngược lại với cáiDramatic, mẫu mực) là hai giá trị vô cùng hấp dẫn với nhà thơ đương đại. Đôi khi nó được dùng như một phép thử độ nhạy bén của người viết đương thời, và theo nghĩa tiêu cực hơn, là một khuynh hướng thời thượng.
Tập thơ Hôm sau của nhà thơ MVP cũng bộc lộ những tiêu chí hướng về hai giá trị này. Ông có những bài thơ với cảm thức ê chệ, cay đắng, mỉa mai, suy đồi… như một cách thức phê phán. Nó cho thấy bên cạnh mỹ cảm thanh tú, cao cả và hào sảng, thơ MVP có thể tiếp cận được những phạm vi dị biệt khác hỗ trợ, tiếp biến với cái cao cả đó.
Nhưng theo đánh giá của cá nhân tôi, thơ MVP vẫn không thực sự mạnh về ý tưởng, điều tiên quyết làm nảy sinh phát kiến giễu nhại, hài hước. Các hình tượng thơ của ông có thể đem đến cảm giác lẩm cẩm, buồn cười, nhưng còn ít bất ngờ cũng như ít sự trái nghịch, thậm xưng phóng túng:
Lúc đi/ ông mặc áo len màu cổ vịt/ quần rộng đũng/ tóc cắt ngắn/ tay cầm cuốn sách
ra gần cửa còn lẩm bẩm: sáng rồi tối… thối rồi thơm… bơm rồi xì… đi rồi ngã… vả rồi thương… ương rồi chín… nín rồi thét… kẹt rồi lơi… xơi rồi hóc… bóc rồi che… đe rồi chừa… đưa rồi quỵt… bịt rồi hở… lỡ rồi toi… moi rồi thấy…
chốt cửa gỗ/ kéo cửa sắt/ ông bấm năm chiếc khoá/ rồi ném chìa vào nhà
Lật đống chăn nơi ông vẫn nằm/ thấy mẩu giấy với nét chữ nguệch ngoạc:/ “Ai tìm thấy tôi ở đâu, gọi về số… Xin cảm ơn và hậu tạ”…
(Đúng vậy)
Hoặc:
Về già ông ít nói/ không buồn không giận/ suốt đêm ngồi câu bên vũng bùn/ để di dưỡng tinh thần?…
(Giả thiết cho buổi sáng hôm sau)
Một chút sự nệ thực và cách tạo hình ảnh mang tính sắp đặt, có phần ngụ ngôn khiến cho hứng thú của người đọc bị giảm bớt.
Thế giới thi ca mộng tưởng vẫn là cống hiến tựu thành và có ý nghĩa sâu sắc, có sức hấp dẫn lớn nhất đối với bạn đọc trong thơ MVP.
Đến với thơ ca bằng tấm tình chất phác, say mê thơ như một người tình nguyên viễn, dường như nhà thơ MVP không có mục đích nào rõ rệt hơn ngoài việc được say đắm và cảm thấy được sống cạn kiệt điều mình mê dụ. Tôi không dám chắc ông có lý tưởng, và thi ca có phải gần đúng là lý tưởng của ông hay không. Ngoài ra, thì hình như trong những quan niệm thuộc lý trí, ông cũng tạm trấn an với việc tự cho rằng thi ca là một sự nghiệp xứng đáng của cuộc đời, cho dù nó có thể chẳng mang lại điều gì sở vật hoặc cũng có thể mang lại rất nhiều tiếng tăm phù phiếm…

* * *

Tôi không có nhiều điều cần so sánh giữa hai nhà thơ, ngoại trừ việc thơ đối với cả hai người họ dường như là định mệnh, hay nói một cách cầu kỳ hơn, là phép lạ. Thơ đến với Đồng Đức Bốn giữa khi ông trằn lưng nếm trải những nhọc nhằn lung lạc của đời sống, điều này chỉ cho thấy sức toả sáng và lôi cuốn diệu kỳ của những giá trị thanh khiết, mà đôi khi cũng được người ta hiểu nhầm thành một thứ danh vọng, để cho một con người đời thường quá nửa đời trần tục, vô minh (- nếu tôi không nhầm), đột nhiên đem tất thảy những gì còn lại của mình cho cái điều ít ra cũng là ý nghĩa nhất đối với chính người ấy: Thơ. Còn với Mai Văn Phấn, thơ là một “âm mưu”. Âm mưu này khiến cho ông không thể trở thành bất cứ gì khác, ai khác, ngoài Mai Văn Phấn. Khiến ông suốt cả đời mang tiếng là nhà thơ, lúc ăn lúc ngủ lúc khóc lúc cười đều bị âm mưu hành hạ. May sao, âm mưu ấy là Đẹp.

Hà Nội giữa tháng Tư năm 2011
_________________

Tài liệu tham khảo:
- Ghi chú về nghệ thuật, Nguyễn Quân, NXB Mỹ thuật 1998
- Con mắt nhìn cái đẹp, Nguyễn Quân, NXB Mỹ thuật 2004
- Encyclopedia of Contemporary Literary Theory, University of Toronto Press, 1993

Triển lãm Nhiếp ảnh, Mỹ thuật về đề tài Hoa phượng & TP Hoa phượng đỏ

Triển lãm các tác phẩm Mỹ thuật và Nhiếp ảnh sáng tác về đề tài Hoa phượng và thành phố Hoa phượng đỏ, do sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Hải Phòng phối hợp với Hội Liên hiệp Văn học - Nghệ thuật Hải Phòng tổ chức.
Lễ trao giải, khai mạc: 16h thứ ba, ngày 29/1/2013
Triển lãm mở cửa đến ngày 20/2/2013 (11 Tết)
Địa điểm: Trung tâm Triển lãm và Mỹ thuật thành phố Hải Phòng.







Chân dung nghệ sĩ

Chân dung nghệ sĩ -Ảnh Nguyễn Tất Hanh
(Giải ba triển lãm nhiếp ảnh Hải Phòng)

Nhà thư pháp Lâm Thanh Sơn

Nhà thư pháp Lâm Thanh Sơn




Thư pháp của Nhà thư pháp Lâm Thanh Sơn

Tranh quốc họa của Nhà thư pháp Lâm Thanh Sơn